Ông N.T.Đ nhận một lô đất có diện tích thực tế 150 m2 do một đơn vị QUÂN ĐỘI cấp từ năm 1993. Quyết định giao đất thể hiện cấp 100 m2 đất cho ông Đ, 50 m2 còn lại không ghi trong quyết định.
Cho con thửa đất do QUÂN ĐỘI cấp
Sau này, ông Đ nghe con trai ruột là anh N.T.T và chị L.T.V thông báo rằng họ đã đăng ký kết hôn; cùng đó, họ xin ông Đ thửa đất do đơn vị QUÂN ĐỘI đã cấp cho ông Đ. Vì tin tưởng nên ông Đ đồng ý cho vợ chồng con trai thửa đất nói trên.
Ngày 3/6/2006, ông Đ làm Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT có nội dung chuyển thửa đất cho con trai và con dâu để xây nhà.
Mọi chuyện êm ấm đến giai đoạn 2010 – 2012, gia đình ông Đ thường xuyên lục đục, mâu thuẫn. Vì thế, ông Đ muốn đòi lại mảnh đất đã sang tên cho vợ chồng anh T, có nguồn gốc là đất do QUÂN ĐỘI cấp.
Con trai ông Đ đồng ý trả lại toàn bộ mảnh đất nhưng người con dâu nhất quyết phản đối.
Do đó, ông Đ khởi kiện, yêu cầu tòa án hủy Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ngày 03/10/2006 và buộc anh NT.T, chị L.T.V trả lại toàn bộ thửa đất trên.
Ở cấp sơ thẩm, HĐXX tuyên bố hủy Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ngày 03/10/2006 do ông N.T.Đ lập. Đồng thời, tòa sơ thẩm buộc anh NT.T, chị L.T.V trả lại ông Đ. thửa đất có diện tích 100 m2, có nguồn gốc từ một đơn vị QUÂN ĐỘI cấp cho ông Đ.
Theo bản án dân sự sơ thẩm, ông Đ. có quyền sở hữu, sử dụng toàn bộ công trình, kiến trúc có trên thửa đất. Ông N.T.Đ có nghĩa vụ thanh toán lại số tiền tương đương giá trị công trình trên thửa đất: gần 300 triệu đồng.
Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT vô hiệu do bị lừa dối
Không đồng tình, chị V và anh L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Căn cứ hồ sơ vụ việc, tòa phúc thẩm thấy rằng nguồn gốc thửa đất tranh chấp là đất mà một đơn vị QUÂN ĐỘI giao cho ông Đ làm nhà ở theo đúng chính sách QUÂN ĐỘI. Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT có chữ ký ông Đ cùng xác nhận từ UBND xã sở tại. Tuy nhiên, nội dung Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT lại không ghi rõ loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới, tình trạng đất.
Tòa phúc thẩm xét thấy sự thiếu sót trong Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT như trên không đảm bảo tính hiệu lực của hợp đồng tặng cho như quy định tại Điều 723, Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Hồ sơ cũng như diễn biến phiên xử đều thể hiện anh T và chị V không hề đăng ký kết hôn. Như vậy, tại thời điểm ông Đ lập Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT thì anh T và chị V không phải là vợ chồng hợp pháp. Từ đó, pháp luật hoàn toàn có cơ sở chấp nhận lời khai ông Đ và anh T trình bày liên quan đến những nội dung nói trên.
Cơ quan xét xử phúc thẩm xác định ông Đ tặng cho QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT đối với thửa đất có nguồn gốc từ đất do QUÂN ĐỘI cấp thông qua Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT lập ngày 03/10/2006 là do bị lừa dối.
Vì những lẽ trên, tòa phúc thẩm quyết định sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – ông N.T.Đ.
Bản án dân sự phúc thẩm xác định Giấy chuyển QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT do ông NT..Đ lập ngày 03/10/2006 là vô hiệu và bị hủy bỏ; buộc chị L.T.V, anh N.T.T trả lại ông N.T.Đ thửa đất mà ông Đ được QUÂN ĐỘI cấp từ năm 1993. Ông Đ có nghĩa vụ thanh toán lại giá trị tài sản trên đất (công trình xây dựng là nhà ở), tương đương gần 300 triệu đồng.
(Lược ghi từ Bản án số 314/2020/DS-PT ngày 6/8/2020 do TAND TP Hà Nội ban hành)