Tại Điều 7 thuộc Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP (Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ Luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi), Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao có hướng dẫn nguyên tắc, cách thức tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi.
Cụ thể như sau:
– Thời hạn xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi được thực hiện như sau:
+ Áp dụng thủ tục rút gọn đối với các trường hợp đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự;
+ Đưa các vụ án khác ra xét xử trong thời hạn không quá ½ thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng.
– Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, tòa án phải thực hiện:
+ Xét xử kín, tuyên án công khai theo đúng quy định tại Điều 327 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Khi tuyên án, HĐXX chỉ đọc phần quyết định trong bản án;
+ Phân công thẩm phán có kiến thức hoặc kinh nghiệm xét xử các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi;
+ Khi tham gia xét xử, thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của tòa án nhân dân, không mặc áo choàng;
+ Xử án tại phòng xét xử thân thiện theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC và Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC của Chánh án TAND Tối cao;
+ Có sự tham gia của người đại diện, người giám hộ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
– Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, tòa án cần thực hiện:
+ Hạn chế triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa nếu vẫn giải quyết được vụ án bằng việc áp dụng các biện pháp thay thế khác (ví dụ: sử dụng lời khai của họ ở giai đoạn điều tra, truy tố; mời họ đến tòa án hoặc địa điểm hợp pháp khác để lấy lời khai trước bằng văn bản, bằng ghi âm, ghi hình có âm thanh…).
+ Trường hợp phải triệu tập bị hại là người dưới 18 tuổi đến phiên tòa, tòa án cần tạo điều kiện để họ làm quen, tiếp xúc với môi trường tòa án, với quy trình và thủ tục xét xử; bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử (ví dụ: micro, loa, tivi, camera…) để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của họ khi họ khai báo, tham gia tố tụng tại phiên tòa;
Trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải có màn che ngăn cách với khu vực của bị cáo và khoảng cách giữa HĐXX với người bị hại là người dưới 18 tuổi không quá 3 mét.
+ Câu hỏi đối với bị hại là người dưới 18 tuổi phải phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển, trình độ văn hóa, hiểu biết của họ.
Câu hỏi cần ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu; không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc; chỉ đặt câu hỏi làm rõ tình tiết vụ án; không đặt câu hỏi chỉ để tranh luận.
Câu hỏi đối với bị hại dưới 10 tuổi không quá 10 từ và thời gian hỏi không liên tục quá 1 giờ.
+ Sử dụng sơ đồ hoặc mô hình cơ thể có đánh số thứ tự các bộ phận để người bị hại là người dưới 18 tuổi xác định các bộ phận bị xâm hại.
+ Khi bị cáo đề nghị được hỏi bị hại là người dưới 18 tuổi thì phải chuyển câu hỏi cho người bào chữa hoặc HĐXX hỏi.
– Khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, tòa án không được:
+ Yêu cầu bị hại là người dưới 18 tuổi tường thuật lại chi tiết quá trình phạm tội;
+ Sử dụng câu hỏi có tính chất công kích, đe dọa, gây xấu hổ, xúc phạm bị hại;
+ Đối chất giữa bị hại với người phạm tội tại phiên tòa;
+ Xác định bộ phận bị xâm hại bằng cách để bị hại là người dưới 18 tuổi chỉ trực tiếp vào bộ phận cơ thể của mình hoặc của người khác;
+ Để bị cáo hỏi trực tiếp bị hại là người dưới 18 tuổi;
+ Buộc bị hại là người dưới 18 tuổi phải đứng khi tham gia tố tụng tại phiên tòa;
+ Công khai bản án, quyết định của tòa án liên quan đến vụ án trên cổng thông tin điện tử của tòa án.
– Tòa án phải xem xét và đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp theo quy định tại Chương XXXIV của Bộ Luật Tố tụng Hình sự khi bị hại, người thân thích của bị hại yêu cầu hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiến nghị bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị hại, người thân thích của họ.
– Tuân thủ các quy định khác tại Chương XXVIII của Bộ Luật Tố tụng Hình sự; hướng dẫn tại Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC của Chánh án TAND Tối cao; Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH của VKSND Tối cao, TAND Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và các văn bản hướng dẫn thi hành khác có liên quan.
(Blogluat.com)