Nhà đầu tư cần nắm rõ quy định pháp luật xung quanh tình huống hủy bỏ chào bán trái phiếu để tự bảo vệ quyền lợi, tránh rủi ro không đáng có.
Khi nào hủy bỏ chào bán trái phiếu?
Ủy ban trái phiếu Nhà nước quyết định hủy bỏ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng trong những trường hợp sau:
– Hết thời hạn đình chỉ theo khoản 1 thuộc Điều 27, Luật Chứng khoán 2019, mà không khắc phục được những thiếu sót dẫn đến việc đình chỉ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng;
– Đợt chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng không đáp ứng được điều kiện về tỷ lệ tối thiểu số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn của tổ chức phát hành theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 15 Luật Chứng khoán 2019;
– Đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng không đáp ứng được điều kiện về huy động đủ phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 15, Luật Chứng khoán 2019.
Ngoài những trường hợp trên, đợt chào bán trái phiếu ra công chúng bị hủy bỏ theo bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định từ trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Hủy bỏ chào bán trái phiếu: phải hoàn trả tiền
Khi hủy bỏ chào bán trái phiếu, tổ chức phát hành trái phiếu có trách nhiệm thực hiện các công việc tuân thủ khoản 3 thuộc Điều 28, Luật Chứng khoán 2019; gồm:
– Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày đợt chào bán trái phiếu ra công chúng bị hủy bỏ, tổ chức phát hành trái phiếu công bố việc hủy bỏ chào bán trái phiếu ra công chúng theo phương thức quy định tại khoản 3 thuộc Điều 25, Luật Chứng khoán 2019; và thu hồi trái phiếu đã phát hành;
– Hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày đợt chào bán trái phiếu bị hủy bỏ. Hết thời hạn này, tổ chức phát hành phải bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư theo điều khoản đã cam kết với nhà đầu tư.
Đã bỏ tiền đầu tư trái phiếu, sau đó tổ chức phát hành trái phiếu đó thông báo hủy bỏ chào bán trái phiếu thì nhà đầu tư sẽ được hoàn trả tiền trong vòng 15 ngày.
Nếu quá thời hạn trên mà nhà đầu tư chưa nhận lại tiền thì tổ chức phát hành trái phiếu phải bồi thường thiệt hại như cam kết ban đầu.
Trái phiếu là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên, do doanh nghiệp phát hành, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành. Pháp luật công nhận ba loại trái phiếu gồm: trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu có bảo đảm, trái phiếu kèm chứng quyền. Mệnh giá của trái phiếu chào bán ra công chúng là 100 nghìn đồng và bội số của 100 nghìn đồng. Trích Điều 13, Luật Chứng khoán 2019 |
Bạn đọc có thể tìm đọc nhiều bài viết về thông tin pháp lý liên quan đến chứng khoán, thị trường chứng khoán… trên website của chúng tôi.
(Blogluat.com)