Vậy, thế nào là GIẾT NGƯỜI đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân?
Bài viết tổng hợp nội dung chi tiết về 16 trường hợp phạm tội GIẾT NGƯỜI chịu hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình quy định tại Khoản 1, Điều 123, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đây cũng là bài viết đầu tiên trong loạt bài về Tội GIẾT NGƯỜI chúng tôi đang giới thiệu đến bạn đọc. Qua loạt bài này, chúng tôi hi vọng bạn đọc có góc nhìn sâu rộng hơn về nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến tội phạm GIẾT NGƯỜI, cũng như nắm bắt chính xác kiến thức pháp luật về tội GIẾT NGƯỜI.
Khái niệm và hình phạt
Tội GIẾT NGƯỜI là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện.
(Căn cứ Điều 123, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Khoản 1, Điều 123, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, quy định 16 trường hợp phạm tội GIẾT NGƯỜI chịu hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Cụ thể:
- Giết 02 người trở lên;
- GIẾT NGƯỜI dưới 16 tuổi;
- Giết phụ nữ mà biết là có thai;
- GIẾT NGƯỜI đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
- Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
- GIẾT NGƯỜI mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
- Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
- Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
- Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
- Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
- Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
- Thuê GIẾT NGƯỜI hoặc GIẾT NGƯỜI thuê;
- Có tính chất côn đồ;
- Có tổ chức;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Vì động cơ đê hèn.
Nếu phạm tội không thuộc các trường hợp nêu trên thì người phạm tội GIẾT NGƯỜI bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Một điều đáng lưu ý đối với tội GIẾT NGƯỜI là trường hợp người chuẩn bị phạm tội vẫn được xem là có tội và có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, người phạm tội GIẾT NGƯỜI còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Tội GIẾT NGƯỜI: tình tiết định khung tăng nặng
Quy định pháp luật hiện hành có phân tích chi tiết, hướng dẫn rõ ràng về 16 trường hợp phạm tội GIẾT NGƯỜI tại khoản 1, Điều 123, Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
– Giết 02 người trở lên: là trường hợp người phạm tội cố ý gây ra cái chết cho 02 người khác trở lên một cách trái pháp luật. Người phạm tội trong trường hợp này có ý định giết từ 02 người trở lên hoặc có ý thức bỏ mặc, chấp nhận hậu quả 02 người chết trở lên xảy ra.
+ Nếu người phạm tội có ý thức bỏ mặc, chấp nhận hậu quả chết người xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp) thì phải có từ 02 người chết trở lên mới áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này. Nếu có 02 người chết do lỗi vô ý của người phạm tội thì không coi là giết nhiều người mà thuộc trường hợp phạm hai tội: Tội GIẾT NGƯỜI và tội Vô ý làm chết người.
+ Nếu có 02 người chết, nhưng chỉ có 01 người thuộc trường hợp quy định tại Điều 123; nạn nhân còn lại thuộc trường hợp người phạm tội gây án trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hoặc thuộc trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ thì cũng không định tội giết 02 người trở lên mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội GIẾT NGƯỜI và một tội khác (GIẾT NGƯỜI trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hoặc GIẾT NGƯỜI do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…).
– GIẾT NGƯỜI dưới 16 tuổi: là tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm nói chung và Tội GIẾT NGƯỜI nói riêng. Quy định này không chỉ nhằm trừng trị nghiêm những người có hành vi giết trẻ em, góp phần ngăn chặn tình trạng xâm phạm tính mạng của trẻ em đang có xu hướng gia tăng mà còn nhằm bảo đảm thực hiện các quy định trong Công ước quốc tế mà nước ta tham gia hoặc ký kết về bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
– Giết phụ nữ mà biết là có thai: là trường hợp người phạm tội biết rõ người mình giết là phụ nữ đang có thai (không kể tháng thứ mấy).
+ Nếu nạn nhân là người tình của người phạm tội, người phạm tội giết nạn nhân để trốn tránh trách nhiệm thì còn có thể bị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng GIẾT NGƯỜI vì động cơ đê hèn.
+ Nếu người bị giết có thai thật, nhưng có căn cứ để xác định người phạm tội không biết họ đang có thai thì không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này. Ngược lại, trường hợp người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội lại tưởng lầm là nạn nhân có thai và sự lầm tưởng này của người phạm tội là có căn cứ, thì người phạm tội vẫn bị xét xử về tội GIẾT NGƯỜI với tình tiết định khung tăng nặng “giết phụ nữ mà biết là có thai”.
– GIẾT NGƯỜI đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân:
+ GIẾT NGƯỜI đang thi hành công vụ: là cố ý gây ra cái chết cho người đang thực hiện một nhiệm vụ được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội có thẩm quyền giao phó. Nhiệm vụ được giao phó có thể là đương nhiệm do nghề nghiệp quy định, như: cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ bảo vệ; thầy thuốc đang điều trị tại bệnh viện; thầy giáo đang giảng bài hoặc hướng dẫn học sinh tham quan nghỉ mát; thẩm phán đang xét xử tại phiên tòa; thanh niên cờ đỏ, dân quân tự vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự ở nơi công cộng…
+ Pháp luật hình sự cũng công nhận một số trường hợp khác là GIẾT NGƯỜI đang thi hành công vụ, gồm: nạn nhân là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội; nạn nhân tuy không phải là những công dân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền huy động, nhưng đã tự nguyện tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong một số lĩnh vực nhất định, như: đuổi bắt người phạm tội bỏ trốn; can ngăn những vụ đánh nhau ở nơi công cộng…
+ Trong khi đó, GIẾT NGƯỜI vì lý do công vụ của nạn nhân được xác định là trường hợp giết nạn nhân không phải lúc họ đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau đó. Thông thường, nạn nhân là người đã thi hành một nhiệm vụ và vì thế đã làm cho người phạm tội thù oán nên đã giết họ. Tuy nhiên, có một số trường hợp người bị giết chưa kịp thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng người có hành vi GIẾT NGƯỜI cho rằng nếu để người này sống, nhiệm vụ mà họ thực hiện sẽ gây ra thiệt hại cho mình. Vì thế, họ ra tay sát hại nạn nhân trước.
– Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình: là trường hợp người phạm tội đã cố ý gây ra cái chết cho những người mà họ phải kính trọng, phải biết ơn, đó là ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình.
Pháp luật khẳng định đây là hành vi làm tăng đáng kể mức độ lỗi của người phạm tội so với trường hợp GIẾT NGƯỜI thông thường, làm đảo lộn các giá trị xã hội và báo động tình trạng xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách. Bởi lẽ, hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng đạo đức, mất hết “nhân tính”, “dám” giết hại cả những người mà mình phải tôn thờ, kính trọng.
Việc pháp luật hình sự nước ta quy định tình tiết định khung tăng nặng trong trường hợp GIẾT NGƯỜI nói trên nhằm trừng trị và giáo dục người phạm tội ý thức tôn trọng pháp luật và giữ gìn đạo đức xã hội.
– GIẾT NGƯỜI mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: là trường hợp GIẾT NGƯỜI mà liền trước hoặc ngay sau khi GIẾT NGƯỜI, người phạm tội lại thực hiện một tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù hoặc một tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Ví dụ, ngay sau khi hạ sát nạn nhân, người phạm tội lại phạm tội Cướp tài sản của người khác không có quan hệ gì với nạn nhân.
– GIẾT NGƯỜI để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác:
+ GIẾT NGƯỜI để thực hiện tội phạm khác: là trường hợp sau khi giết nạn nhân, người phạm tội còn thực hiện tội phạm khác. Tội phạm được thực hiện sau khi GIẾT NGƯỜI phải có liên quan mật thiết với hành vi GIẾT NGƯỜI. Hành vi GIẾT NGƯỜI là tiền đề, là phương tiện để thực hiện tội phạm sau, nếu không GIẾT NGƯỜI thì không thực hiện được tội phạm sau. Ví dụ, GIẾT NGƯỜI để khủng bố, GIẾT NGƯỜI để cướp tài sản…
+ GIẾT NGƯỜI để che giấu tội phạm khác: là trường hợp trước khi giết nạn nhân, người phạm tội đã thực hiện tội phạm khác và để che giấu tội phạm đó, người phạm tội đã giết nạn nhân. Thông thường sau khi phạm một tội có nguy cơ bị lộ, người phạm tội cho rằng chỉ có GIẾT NGƯỜI thì tội phạm mà mình thực hiện mới không bị phát hiện. Người bị giết trong trường hợp này thường là người đã biết hành vi phạm tội hoặc là người cùng thực hiện tội phạm với người phạm tội. Ví dụ, A phạm tội Hiếp dâm và bị B bất ngờ phát hiện. Nhằm che giấu tội Hiếp dâm, A đã giết B.
– GIẾT NGƯỜI để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: là trường hợp GIẾT NGƯỜI vì mục đích để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân và khi có bộ phận cơ thể của nạn nhân, người phạm tội có thể dùng để thay thế bộ phận đó cho mình hoặc cho người thân của mình hoặc để bán cho người khác.
+ Nếu vì quá căm tức, uất ức hoặc bị kích động mạnh mà người phạm tội sau khi giết nạn nhân đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để thỏa mãn sự căm tức, uất ức hoặc kích động mạnh thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ, sau khi GIẾT NGƯỜI, người phạm tội đã mổ bụng, lấy gan nạn nhân cho chó ăn. Trường hợp này có thể áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “thực hiện tội phạm một cách man rợ”.
– Thực hiện tội phạm một cách man rợ: là trường hợp GIẾT NGƯỜI làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết, như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết… Những hành vi này thường được người phạm tội thực hiện trước khi tội phạm hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân tắt thở.
Thực tiễn xét xử cũng coi các hành vi nêu trên để che giấu tội phạm là hành vi thực hiện tội phạm một cách man rợ. Ví dụ, sau khi đã GIẾT NGƯỜI, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra nhiều phần đem vứt mỗi nơi một ít để phi tang.
– GIẾT NGƯỜI bằng cách lợi dụng nghề nghiệp: là trường hợp người phạm tội đã sử dụng nghề nghiệp của mình để làm phương tiện GIẾT NGƯỜI dễ dàng và cũng dễ dàng che giấu tội phạm, như: bác sĩ giết bệnh nhân nhưng lập bệnh án là nạn nhân chết do bệnh hiểm nghèo; bảo vệ bắn chết người nhưng lại vu khống nạn nhân là kẻ cướp.
Nếu người có hành vi GIẾT NGƯỜI bằng phương pháp có tính chất nghề nghiệp nhưng đó không phải là nghề nghiệp của y mà y lại lợi dụng người có nghề nghiệp đó rồi thông qua người này thực hiện ý đồ của mình thì không thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ, một kẻ đã đánh tráo ống thuốc tiêm của y tá điều trị, thay vào đó một ống thuốc giả có nhãn hiệu như ống thuốc thật nhưng có độc tố mạnh để mượn tay người y tá giết chết một bệnh nhân mà kẻ này thù oán.
– GIẾT NGƯỜI bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người: là trường hợp người phạm tội đã sử dụng những công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn phạm tội có khả năng làm chết từ 02 người trở lên, như: ném lựu đạn vào chỗ đông người; cho thuốc độc vào nguồn nước, bể nước công cộng; bắn súng vào tàu, xe, ca nô khi đang có nhiều người ở trên…
Không những đe dọa gây ra hậu quả chết nhiều người mà trường hợp phạm tội nêu trên còn thể hiện mức độ tàn ác của hành vi phạm tội. Do đó, pháp luật hình sự quy định tình tiết “GIẾT NGƯỜI bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” là tình tiết định khung tăng nặng.
– Thuê GIẾT NGƯỜI hoặc GIẾT NGƯỜI thuê:
+ Thuê GIẾT NGƯỜI: là trường hợp trả cho người khác tiền hoặc lợi ích vật chất để họ GIẾT NGƯỜI mà mình muốn giết. Cũng giống như những trường hợp thuê làm một việc, người phạm tội vì không trực tiếp thực hiện hành vi GIẾT NGƯỜI nên đã dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để thuê người khác GIẾT NGƯỜI. Người trực tiếp GIẾT NGƯỜI trong trường hợp này là người giết thuê.
+ GIẾT NGƯỜI thuê: là trường hợp người phạm tội lấy việc GIẾT NGƯỜI làm phương tiện để kiếm tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Vì muốn có tiền nên người phạm tội đã nhận lời với người thuê mình để giết một người khác. Việc trừng trị nặng người giết thuê là nhằm ngăn chặn tình trạng “đâm thuê, chém mướn”.
+ Thuê GIẾT NGƯỜI và GIẾT NGƯỜI thuê có mối quan hệ mật thiết với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, thiếu một trong hai cái thì không có trường hợp GIẾT NGƯỜI này xảy ra (có người thuê, mới người làm thuê). Thông thường việc GIẾT NGƯỜI thuê và thuê GIẾT NGƯỜI đồng thời là trường hợp GIẾT NGƯỜI có tổ chức, nhưng cũng có thể chỉ là trường hợp đồng phạm bình thường.
– GIẾT NGƯỜI có tính chất côn đồ: là trường hợp GIẾT NGƯỜI vô cớ (không có nguyên cớ) hoặc cố tình sử dụng những nguyên cớ nhỏ nhặt để GIẾT NGƯỜI, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, coi thường tính mạng người khác và những quy tắc trong cuộc sống.
– GIẾT NGƯỜI có tổ chức: là trường hợp GIẾT NGƯỜI có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm GIẾT NGƯỜI. Nếu nhiều người cùng tham gia vào một vụ án GIẾT NGƯỜI, nhưng không có sự cấu kết chặt chẽ mà chỉ có sự đồng tình mang tính chất hời hợt thì không phải là GIẾT NGƯỜI có tổ chức.
Để phân biệt phạm tội có tổ chức với những trường hợp đồng phạm khác, cơ quan pháp luật thường chú ý đến vấn đề phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trên thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện dưới các dạng sau:
+ Những người đồng phạm GIẾT NGƯỜI đã tham gia một tổ chức phạm tội (hội, băng nhóm…) có tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội GIẾT NGƯỜI không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội.
+ Những người đồng phạm GIẾT NGƯỜI đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước.
+ Những người đồng phạm GIẾT NGƯỜI tuy chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Ví dụ, GIẾT NGƯỜI mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm…
– Tái phạm nguy hiểm: người phạm tội GIẾT NGƯỜI bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng tái phạm nguy hiểm nếu họ thuộc 1 trong 2 trường hợp dưới đây:
+ Người phạm tội GIẾT NGƯỜI đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi GIẾT NGƯỜI.
+ Người phạm tội GIẾT NGƯỜI đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi GIẾT NGƯỜI.
– GIẾT NGƯỜI vì động cơ đê hèn: là trường hợp GIẾT NGƯỜI vì những động cơ:
+ Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác; giết chồng để lấy vợ hoặc giết vợ để lấy chồng nạn nhân;
+ GIẾT NGƯỜI tình mà biết họ đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm;
+ Giết chủ nợ để trốn nợ; GIẾT NGƯỜI để cướp tài sản; GIẾT NGƯỜI là ân nhân của mình…
+ Ngoài các trường hợp nêu trên, thực tiễn xét xử còn coi trường hợp vì không giết được người mình muốn giết mà GIẾT NGƯỜI thân của họ là GIẾT NGƯỜI vì động cơ đê hèn.
(Tổng hợp)
Còn tiếp…