Site icon Blogluat.com

Tội GIẾT NGƯỜI: hai trường hợp khó tử hình

Bị cáo Vũ Ngọc Hiếu bị TAND TP Hồ Chí Minh xử phạt mức án tử hình về tội GIẾT NGƯỜI

Loạt bài về tội GIẾT NGƯỜI tiếp tục cung cấp những thông tin pháp luật hữu ích về tình huống GIẾT NGƯỜI trong trạng thái tinh thần kích động mạnh, GIẾT NGƯỜI do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

GIẾT NGƯỜI do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:

Tội GIẾT NGƯỜI do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội được quy định tại Điều 126, Bộ Luật Hình sự 2015, cụ thể:

– Người nào GIẾT NGƯỜI trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

– Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

GIẾT NGƯỜI trong trạng thái tinh thần kích động mạnh:

Theo Điều 125 Bộ luật Hình sự 2015, tội GIẾT NGƯỜI trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh được quy định như sau:

– Người nào GIẾT NGƯỜI trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

– Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, người phạm tội GIẾT NGƯỜI trong trạng thái tinh thần kích động mạnh và phải xuất phát từ nguyên nhân do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó thì vẫn bị phạt tù. Mức phạt cao nhất lên đến 07 năm tù giam.

Vậy, thế nào là trạng thái tinh thần bị kích động mạnh?

Thắc mắc trên được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao giải đáp trong Nghị quyết số 04/HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986. Theo hướng dẫn tại nghị quyết này, để có thể xác định tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không cũng như để phân biệt giữa “kích động” với “kích động mạnh”, cơ quan pháp luật cần xem xét một cách khác quan, toàn diện các mặt: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của sự việc; mối quan hệ giữa nạn nhân với người phạm tội; trình độ văn hóa, chính trị, tính tình, cá tính của mỗi bên…

Tình trạng tinh thần bị kích động là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

  1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
  2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
  3. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
  4. Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
  5. Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
  6. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
  7. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
  8. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
  9. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
  10. Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
  11. Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
  12. Phạm tội do lạc hậu;
  13. Người phạm tội là phụ nữ có thai;
  14. Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
  15. Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
  16. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
  17. Người phạm tội tự thú;
  18. Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
  19. Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ;
  20. Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
  21. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
  22. Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

(Điều 51, Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017)

(Tổng hợp)

Còn tiếp…

Exit mobile version